Tác phẩm nổi bật Hồ Sĩ Tạo (cử nhân)

Ông có một tập thơ trên dưới một trăm bài có tên là: "Tiểu Khê thi tập", và một tập nhật ký tìm họ nói về gốc tích họ Hồ, nhưng rất tiếc thơ văn của ông hiện nay con cháu không còn giữ được, bị thất lạc trong cải cách ruộng đất.... Ông đã từng cùng em họ là Cử nhân Hồ Sĩ Tuấn đến thăm nhà thờ họ Hồ ở Quỳnh Đôi và lưu lại ở đây đôi câu đối nổi tiếng:

Trâm anh nhất thổ Quỳnh Đôi trụ,Hương hoả thiên thu Cổ Nguyệt đường.Nhà thờ họ Hồ nghìn thu hương hoả.Cột trụ Quỳnh Đôi một sắc trâm anh

Thuở nhỏ, lúc 16 tuổi, Hồ Sĩ Tạo nhà nghèo, đi tìm chỗ dạy để nuôi thân. Ông chủ nhà thử tài học, bảo Hồ Sĩ Tạo vịnh con muỗi. Hồ Sĩ Tạo liền đọc:

Bạch nhật dĩ vô điêu Tể Ngã (Ban ngày, không thể làm được Tể Ngã)Thanh tiêu hà xứ mộng Chu Công (Ban đêm, làm gì có chỗ nào để mộng Chu Công)

Ông còn có câu đối mừng thọ cụ Can Bang 80 tuổi. (Cụ ở xã Đại Đồng, tổng Đại Đồng, huyện Thanh Chương, là mẹ Cử nhân Nguyễn Như Cơ (đậu năm 1882) và là em gái Tiến sĩ Nguyễn Hữu Điển (1825- ?) đậu Cử nhân năm 1846, Tam giáp Tiến sĩ năm 1853):

Yên Sơn đan quế liên phương nhậtVương Mẫu bàn đào kết thực niên.Bàn đào Vương Mẫu năm năm kết tráiĐan quế Yên Sơn ngày ngày toả hương.

Lúc Hồ Sĩ Tạo làm tri phủ ở Quảng Bình, một người đàn bà có chồng họ Mạnh lội sông đi hát phường vải bị chết đuối đến xin câu đối điếu chồng, ông liền đọc:

Quân thị Mạnh gia danh, khỉ bất văn: Dự chúng lạc, độc lạc, thục lạc? (Chàng họ Mạnh, há không nghe: Cùng dân chúng vui nhạc, một mình vui nhạc, đàng nào vui hơn?)

Thiếp phi ngư phu tử, cánh vô như, bất độ hà, độ hà, nại hà? (Thiếp không phải con ngư phủ, biết làm sao, không qua sông, qua sông, làm cách nào?)

Khi mắc tội bị giáng làm Giáo thụ (phụ trách việc học ở phủ), ông có làm câu đối tự thuật:

Ngã đặc hà vi đa sự tai: thiếu phủ hư danh sĩ, tráng tác hoạn trường nô, gián hữu thất túc ư quốc sự tù, bán thế dĩ thành tam biến kiếp;Kim khả dĩ cáo vô tội hĩ: triêu xuất canh điền ông, mộ nhập quán viên tẩu, dạ lai vĩnh toạ thính gia nhi độc, dư sinh tằng vấn kỷ tri âm!

Cụ Nguyễn Văn Huyền dịch:

Riêng ta sao mà lắm chuyện thay: trẻ là kẻ sĩ hư danh, lớn là đầy tớ quan lớn, giữa chừng lỡ chân quốc sự vào tù, nửa đời từng qua ba bốn kiếp;Nay mình đáng nói không tội vậy: sớm làm ông già cày ruộng, chiều thành cụ lão tưới vườn, tối đến nghe lũ gia nhi ngồi học, tuổi chưa từng hỏi mấy tri âm![3]

Bản dịch hai bài thơ chữ Hán của cụ Hồ Sĩ Tạo trong Tiểu Khê thi tập, được in trong Tổng tập Văn học Việt Nam tập 19, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội:

Vịnh Hà Nội

Gió bụi nhiều nay tới cố kinhSớm ra nhìn lại xót xa tìnhCá hồ xao động ba triều biếnLong Đỗ trơ vơ mấy dặm tình.Bảng lảng núi Nùng mây phủ kínKhóc than dòng Nhị nước trôi nhanhAnh hùng, hào kiệt đi đâu cảAi giúp non sông rửa bất bình?

(Vũ Minh Anh dịch)

Đề đền thờ ba vị trung liệt

Khói bụi mờ mịt trên thành RồngDưới thành máu đỏ nhuốm đầy sôngThành trả, Nguyễn nguyên soái không vềThành mất, mất luôn Hoàng Tướng côngĐời tựa bóng câu qua cửa váchNghìn năm chính khí vút trời biếcNhà Tống ba trăm năm cương thườngDồn vào một vai Văn Thiên TườngCần chết mà chết, chết bất hủĐến nay sử xanh còn lừng hương.Hoan Châu, hậu sinh Hồ Sĩ TạoKính thuật văn này một lời điếuMây non Tản soi bóng sông HồngRờ rỡ tinh trung vầng nhật chiếu.

(Nguyễn Văn Huyền dịch)